Hệ thống pháp luật

BỘ TÀI CHÍNH
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 13417/BTC-PTHT
V/v Tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư công nguồn NSNN 7 tháng, ước 8 tháng năm 2025

Hà Nội, ngày 28 tháng 8 năm 2025

 

Kính gửi: Thủ tướng Chính phủ

Căn cứ Quyết định số 1508/QĐ-TTg ngày 04/12/2024 của Thủ tướng Chính phủ về việc giao kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước năm 2025, giao dự toán, kế hoạch đầu tư công từ nguồn tăng thu ngân sách trung ương; thực hiện quy định về chế độ báo cáo tình hình giải ngân tại Luật Đầu tư công năm 2024 và Nghị định số 85/2025/NĐ-CP ngày 08/4/2025 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Đầu tư công, Bộ Tài chính báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước (NSNN) lũy kế 7 tháng, ước 8 tháng năm 2025 như sau:

I. VỀ TÌNH HÌNH PHÂN BỔ KẾ HOẠCH ĐẦU TƯ CÔNG NGUỒN NSNN NĂM 2025

1. Kế hoạch đầu tư công nguồn NSNN năm 2025

1.1. Căn cứ quy định Luật Đầu tư công, Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã giao[1] kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2025 cho các bộ, cơ quan trung ương là 884.585,6 tỷ đồng, bao gồm: vốn NSTW là 408.858,3 tỷ đồng (vốn trong nước là 384.268,9 tỷ đồng[2], vốn nước ngoài là 24.589,3 tỷ đồng) và vốn NSĐP là 475.727,3 tỷ đồng. Trong đó, vốn NSTW bố trí cho dự án, nhiệm vụ thuộc 03 Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) là 24.460,1 tỷ đồng[3]. Cụ thể:

(1) Kế hoạch đầu tư công giao đầu năm 2025 là 825.922,3 tỷ đồng.

(2) Kế hoạch đầu tư công vốn NSTW năm 2025 được giao bổ sung là 58.663,3 tỷ đồng. Bao gồm: 2.498,286 tỷ đồng vốn CTMTQG; 56.165 tỷ đồng từ nguồn tăng thu NSTW năm 2024.

1.2. Kế hoạch vốn cân đối NSĐP năm 2025 các địa phương giao tăng so với kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (theo số liệu cập nhật đến thời điểm báo cáo) là 141.341 tỷ đồng.

1.3. Kế hoạch vốn các năm trước được phép kéo dài tính đến thời điểm báo cáo là 64.923,8 tỷ đồng; trong đó: NSTW là 37.010,9 tỷ đồng[4], NSĐP là 27.912,9 tỷ đồng.

Như vậy, tổng kế hoạch giao năm 2025 đến thời điểm báo cáo (kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, kế hoạch vốn cân đối địa phương giao tăng, kế hoạch các năm trước chuyển sang) là 1.090.850,4 tỷ đồng.

2. Tình hình triển khai phân bổ chi tiết kế hoạch vốn của các bộ, cơ quan trung ương và địa phương

2.1. Kế hoạch vốn đã triển khai phân bổ:

Tính đến ngày 28/8/2025, tổng số vốn đã phân bổ là 987.528 tỷ đồng; bao gồm NSTW là 370.459,7 tỷ đồng (vốn trong nước là 347.418 tỷ đồng, vốn nước ngoài là 23.041,7 tỷ đồng), NSĐP là 617.068,3 tỷ đồng. Nếu không tính số kế hoạch vốn cân đối NSĐP các địa phương gia tăng là 141.341 tỷ đồng, tổng số vốn đã phân bổ là 846.187 tỷ đồng, đạt 95,66% kế hoạch vốn Thủ tướng Chính phủ đã giao (884.585,6 tỷ đồng).

2.2. Kế hoạch vốn chưa được triển khai phân bổ:

- Tổng số vốn còn lại chưa phân bổ chi tiết là 38.398,5 tỷ đồng (vốn NSTW) của 18/42[5] bộ, cơ quan trung ương và 29/34 địa phương (chiếm 4,34% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao). Trong đó: vốn theo ngành, lĩnh vực là 37.271,4 tỷ đồng; vốn CTMTQG là 1.127,1 tỷ đồng. Bao gồm:

(1) 1.937,5 tỷ đồng vốn NSTW chưa phân bổ so với kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao đầu năm (chiếm 0,22% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao).

(2) 31.764,2 tỷ đồng chưa phân bổ do mới giao bổ sung kế hoạch vốn từ nguồn tăng thu NSTW năm 2024 và giao bổ sung vốn CTMTQG đợt 2, đợt 3[6] (chiếm 82,5% tổng số vốn chưa phân bổ và chiếm 3,6% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao).

(3) 4.696,8 tỷ đồng đang trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, điều chỉnh giảm kế hoạch đầu tư vốn NSTW năm 2025 của 10 bộ, cơ quan trung ương và 03 địa phương để bổ sung tương ứng cho 03 bộ, cơ quan trung ương và 17 địa phương khác có nhu cầu bổ sung vốn[7].

- Nguyên nhân chưa phân bổ vốn NSTW chủ yếu do các bộ, cơ quan trung ương và địa phương mới được Thủ tướng Chính phủ giao bổ sung kế hoạch vốn. Một số nguyên nhân khác như: (i) do thực hiện chính quyền địa phương 02 cấp, nên cần rà soát để phân bổ số vốn nêu trên cho các chủ đầu tư mới[8]; (ii) dự án đã bố trí đủ tổng mức đầu tư không còn nhu cầu sử dụng, dự án gặp vướng mắc không có khả năng triển khai thực hiện trong năm 2025, đề xuất kéo dài thời gian thực hiện sang giai đoạn sau hoặc phải dùng thực hiện[9]; (iii) vốn CTMTQG đã bố trí đủ theo quy mô, đối tượng, mục tiêu được phê duyệt[10]; (iv) dự án thay đổi mục tiêu đầu tư (sử dụng vốn chi thường xuyên thay cho chi đầu tư)[11]; (v) dự án chuyển giao cơ quan chủ quản từ trung ương về địa phương theo quy định mới về phân cấp quản lý[12]; các địa phương đang trong quá trình hoàn thiện thủ tục đầu tư dự án[13] hoặc đang trình Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua tại kỳ họp gần nhất[14];...

2.3. Về phương án điều chỉnh kế hoạch vốn đầu công nguồn NSTW năm 2025:

Theo báo cáo của các bộ, cơ quan trung ương và địa phương, Bộ Tài chính ghi nhận 18 bộ, cơ quan trung ương và 10 địa phương đề nghị điều chỉnh giảm kế hoạch vốn nguồn NSTW năm 2025 (bao gồm số chưa phân bổ và số đã phân bổ chi tiết) là 9.993,02 tỷ đồng. (Chi tiết tại Phụ lục IIA kèm theo)

Đối với số vốn đề xuất điều chỉnh giảm nêu trên: trên cơ sở đề xuất bổ sung kế hoạch đầu tư vốn NSTW năm 2025 của các bộ, cơ quan trung ương và địa phương, Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, điều chỉnh giảm 4.696,8 tỷ đồng kế hoạch đầu tư vốn NSTW năm 2025 của 10 bộ, cơ quan trung ương và 03 địa phương[15] để bổ sung tương ứng cho 03 bộ, cơ quan trung ương và 17 địa phương[16] theo chỉ đạo tại Nghị quyết số 124/NQ-CP ngày 08/5/2025 của Chính phủ.

Đối với số vốn còn lại là 5.296,2 tỷ đồng, Bộ Tài chính đang tổng hợp nhu cầu của các bộ, ngành và địa phương có nhu cầu sử dụng để tổng hợp, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét điều chỉnh theo đúng quy định của Luật Đầu tư công và các quy định pháp luật có liên quan.

II. VỀ TÌNH HÌNH GIẢI NGÂN KẾ HOẠCH ĐẦU TƯ CÔNG NGUỒN NSNN NĂM 2025 (Phụ lục I đính kèm)

- Lũy kế giải ngân từ đầu năm đến ngày 31/7/2025 là 358.188,8 tỷ đồng, đạt 32,84% tổng kế hoạch (1.090.850,4 tỷ đồng).

- Ước giải ngân từ đầu năm đến ngày 31/8/2025 là 434.006,5 tỷ đồng, đạt 39,79% tổng kế hoạch, cụ thể:

1. Giải ngân vốn kế hoạch các năm trước kéo dài sang năm 2025:

- Lũy kế giải ngân từ đầu năm đến ngày 31/7/2025 là 19.690 tỷ đồng, đạt 30,3 3% kế hoạch (64.923,8 tỷ đồng).

- Ước giải ngân từ đầu năm đến ngày 31/8/2025 là 24.832,0 tỷ đồng, đạt 38,25% kế hoạch.

2. Về giải ngân vốn kế hoạch năm 2025:

2.1. Lũy kế giải ngân từ đầu năm đến ngày 31/7/2025 là 338.498,8 tỷ đồng, đạt 33% kế hoạch (1.025.926,5 tỷ đồng), đạt 38,27% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao.

Nếu tính trên kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao đầu năm (825.922,3 tỷ đồng), lũy kế giải ngân đến hết tháng 7 là 41% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ.

2.2. Ước giải ngân từ đầu năm đến ngày 31/8/2025 là 409.174,5 tỷ đồng, đạt 39,9% kế hoạch, đạt 46,3% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (cùng kỳ năm 2024 đạt 36,9% kế hoạch và đạt 40,4% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao).

Nếu tính trên kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao đầu năm, ước giải ngân đến hết tháng 8 là 49,5% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao.

Cụ thể như sau:

ĐVT: Tỷ đồng

STT

Nội dung

Ước thanh toán đến ngày 31/8/2025

Tỷ lệ (%) thực hiện

Tỷ lệ (%) so với KH

TTg (bao gồm các Quyết định giao bổ sung)

Tỷ lệ (%) so với KH TTg giao đầu năm

Cùng kỳ năm 2024

Số tiền

Tỷ lệ (%) thực hiện

Tỷ lệ (%) so với KH TTg

 

TỔNG SỐ

409.174,5

39,9%

463%

49,5%

273.884,2

36,9%

40,4%

 

VỐN TRONG NƯỚC

405.541,1

40,5%

47,2%

50,6%

269.647,6

37,4%

41%

 

VỐN NƯỚC NGOÀI

3.633,4

14,8%

14,8%

14,8%

4.236,6

21,2%

21,2%

A

VỐN NSĐP

277.400,8

45%

58,3%

58,3%

173.096,3

34,9%

40%

B

VỐN NSTW

131.773,7

32,2%

32,2%

37,6%

100.787,9

41,0%

41%

-

Vốn NSTW đầu tư theo ngành, lĩnh vực

118.946,3

30,9%

30,9%

36,2%

88.978,2

40,7%

40,7%

+

Vốn trong nước

115.380,1

32,0%

32,0%

38%

84.770,6

42,6%

42,6%

+

Vốn nước ngoài

3.566,2

14,6%

14,6%

14,6%

4.207,6

21,9%

21,9%

-

Vốn CTMTQG

12.827,4

52,4%

52,4%

58,4%

11.809,7

43,4%

43,4%

 

Vốn trong nước

12.760,2

52,6%

52,6%

58,6%

11.780,7

44,6%

44,6%

 

Vốn nước ngoài

67,2

34,6%

34,6%

34,6%

29

3,5%

3,5%

3. Nhận xét tình hình giải ngân kế hoạch vốn

- Trong bối cảnh chuyển giao mô hình tổ chức chính quyền 2 cấp, cả nước đã nỗ lực tiếp tục đẩy nhanh tiến độ giải ngân ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2025. Ước tính tỷ lệ giải ngân của cả nước đến hết tháng 8 đạt 46,3%; so với cùng kỳ năm 2024 tăng 135.290,3 tỷ đồng về số tuyệt đối và tăng 5,9% về tỷ lệ; đặc biệt là vốn NSĐP với tỷ lệ giải ngân đạt 58,3%, tăng 18,3% so với cùng kỳ năm 2024. Có 07/42 bộ ngành và 19/34 địa phương có tỷ lệ giải ngân đạt trên mức bình quân chung cả nước; 35/42 bộ ngành và 15/34 địa phương có tỷ lệ giải ngân dưới mức bình quân chung cả nước.

- Hiện nay, Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, điều chỉnh giảm kế hoạch đầu tư vốn NSTW năm 2025 của một số bộ, cơ quan trung ương và địa phương; đồng thời, một số bộ, địa phương mới được Thủ tướng Chính phủ giao bổ sung kế hoạch vốn năm 2025 dẫn tới các đơn vị chưa có thời gian để triển khai phân bố và giải ngân nguồn vốn này. Do đó, để đảm bảo đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch vốn theo đúng tình hình thực tế của các bộ, cơ quan trung ương và địa phương, Bộ Tài chính đã điều chỉnh đánh giá tỷ lệ giải ngân 8 tháng của các đơn vị tính trên kế hoạch đề xuất điều chỉnh giảm[17] và không bao gồm kế hoạch mới được giao bổ sung. Các bộ, ngành và địa phương đề xuất điều chỉnh giảm kế hoạch vốn năm 2025 chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về việc đề xuất nhu cầu bố trí kế hoạch năm 2025 không phù hợp với khả năng giải ngân dẫn đến việc phải đề xuất điều chỉnh giảm kế hoạch vốn. Theo đó:

+ Có 08 bộ, cơ quan trung ương và 22 địa phương có tỷ lệ ước giải ngân đạt từ mức bình quân chung cả nước, bao gồm: Ngân hàng Phát triển; Ngân hàng Chính sách xã hội; Tổng liên đoàn lao động Việt Nam; Văn phòng Trung ương Đảng; Đài Tiếng nói Việt Nam; Tập đoàn Điện lực Việt Nam; Bộ Quốc phòng; Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam; Hà Tĩnh; Thanh Hóa; Ninh Bình; Thái Nguyên; Lào Cai; Phú Thọ; Bắc Ninh; Gia Lai; Tây Ninh; Quảng Ngãi; Nghệ An; Thành phố Huế; Điện Biên; Hải Phòng; Quảng Ninh; Hưng Yên; Lạng Sơn; TP. Hồ Chí Minh; Đồng Tháp; Tuyên Quang; Khánh Hòa; Cao Bằng.

+ Có 30 bộ, cơ quan trung ương và 12 địa phương có tỷ lệ ước giải ngân đạt dưới bình quân chung cả nước; bao gồm: Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam; Đài Truyền hình Việt Nam; Bộ Khoa học và Công nghệ; Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam; Liên minh Hợp tác xã Việt Nam; Thanh tra Chính phủ; Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Bộ Ngoại giao; Bộ Dân tộc và Tôn giáo; Bộ Y tế; Văn phòng Chính phủ; Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Bộ Công Thương; Hội Nông dân Việt Nam; Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Tòa án nhân dân tối cao; Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; Thông tấn xã Việt Nam; Đại học Quốc gia Hà Nội; Bộ Tài chính; Bộ Nông nghiệp và Môi trường; Bộ Nội vụ; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Bộ Tư pháp; Bộ Xây dựng; Kiểm toán Nhà nước; Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Bộ Công an; Lai Châu; Sơn La; Quảng Trị; Lâm Đồng; Vĩnh Long; Cần Thơ; Đồng Nai; An Giang; Cà Mau; Đắc Lắc; Hà Nội; Đà Nẵng.

(Chi tiết tại Phụ lục IA, IB đính kèm)

III. NHỮNG KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC ẢNH HƯỞNG ĐẾN TIẾN ĐỘ GIẢI NGÂN VỐN ĐẦU TƯ CÔNG

Đến nay, kết quả giải ngân của nhiều bộ, cơ quan trung ương và địa phương đã có chuyển biến tích cực, đẩy nhanh tiến độ giải ngân, nhờ vậy tỷ lệ giải ngân chung của cả nước đã vượt tỷ lệ giải ngân cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, tỷ lệ giải ngân tháng 8 của các địa phương có xu thế chậm lại so với tháng 7. Theo tổng hợp, đánh giá và làm việc trực tiếp với các bộ, ngành và địa phương, Bộ Tài chính nhận thấy, vẫn còn tồn tại một số nguyên nhân gây khó khăn kéo dài, chưa được khắc phục triệt để như sau:

1. Liên quan đến sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và chuyển sang mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp:

Sau 02 tháng triển khai mô hình Tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp, Bộ Tài chính nhận thấy, tuy phải tập trung cho công tác kiện toàn, sắp xếp đơn vị hành chính và vận hành mô hình chính quyền địa phương 02 cấp, việc duy trì tiến độ triển khai thực hiện các dự án và đẩy mạnh giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công vẫn được các địa phương quan tâm triển khai sát sao. Nhiều địa phương đã hoàn thành việc sắp xếp, kiện toàn bộ máy; quan tâm bố trí đầy đủ cán bộ công chức để không gián đoạn công việc; các đơn vị sử dụng ngân sách cấp xã, phường đã cơ bản hoàn thành việc mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước để đảm bảo kịp thời giải ngân vốn đầu tư công các dự án. Mặc dù vậy, quá trình triển khai mô hình chính quyền địa phương 02 cấp còn phát sinh một số khó khăn, vướng mắc, phát sinh chủ yếu từ khâu tổ chức thực hiện, ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ giải ngân vốn đầu tư công của các địa phương, cụ thể như sau:

- Một số quy định về phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền khi tổ chức mô hình chính quyền địa phương 02 cấp ở nhiều địa phương chưa được thực hiện kịp thời, hiệu quả; nguyên nhân do một số quy định giữa các luật, nghị định, thông tư còn mâu thuẫn, chưa đảm bảo tính thống nhất hoặc chưa đủ cụ thể, rõ ràng để địa phương triển khai thực hiện[18];

- Một số địa phương (cấp xã) trong giai đoạn đầu chưa kịp thời kiện toàn bộ máy được đầy đủ. Nhiều đơn vị cấp xã không có đủ lãnh đạo, cán bộ có chuyên môn sâu về lĩnh vực phụ trách, đặc biệt không có cán bộ đủ tiêu chuẩn, điều kiện để bổ nhiệm kế toán, kế toán trưởng, dẫn đến nhiều đơn vị không thể mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước[19] nên ảnh hưởng đến hoàn tất thủ tục giải ngân vốn đầu tư công. Tình trạng thiếu cán bộ công chức có kinh nghiệm về công tác giải phóng mặt bằng, quản lý dự án,... ảnh hưởng tới công tác quản lý dự án và giải ngân;

Việc sắp xếp bố trí cán bộ công chức từ các huyện xuống các xã và giữa các xã chưa đồng đều, toàn diện, chưa phủ kín các vị trí chủ chốt, nhất là đối với các xã vùng sâu, vùng xa, dẫn đến một số xã còn lúng túng trong việc tiếp nhận và xử lý khối lượng công việc lớn và mới trong cùng một thời điểm cấp xã vừa tiếp nhận nhiệm vụ của cấp huyện, vừa tiếp nhận thẩm quyền theo phân cấp từ các bộ ngành và của cấp tỉnh thuộc lĩnh vực quản lý đầu tư công;

- UBND cấp xã được giao làm chủ đầu tư một số dự án đầu tư công nhưng không có ban quản lý dự án xây dựng chuyên trách[20];

- Việc thay đổi trong trách nhiệm, quyền hạn, quy trình quản lý dự án tại địa phương do không duy trì cấp huyện và các cơ quan chức năng mới sau sắp xếp, sáp nhập cũng là nguyên nhân làm cho công tác thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi, thẩm định thiết kế cơ sở, thẩm định thiết kế xây dựng; công tác nghiệm thu, thanh toán phải kéo dài thời gian xử lý do dự án phải điều chỉnh thiết kế để phù hợp với việc sáp nhập địa giới hành chính; ảnh hưởng đến công tác GPMB các dự án của trung ương và địa phương do các đơn vị cấp huyện là tổ chức chủ chốt triển khai công tác giải phóng mặt bằng (GPMB);...

Để phù hợp với cơ cấu bộ máy sau khi thực hiện sắp xếp, tinh gọn, nhiều dự án của các bộ, cơ quan trung ương và địa phương đã tạm dừng khởi công, rà soát để xác định lại sự cần thiết phải đầu tư, điều chỉnh quy mô, phạm vi, tiêu chuẩn định mức dẫn đến chưa tiếp tục bố trí vốn thực hiện dự án để chờ kết quả rà soát; một số dự án do không còn nhu cầu phải dừng thực hiện, đang đề xuất điều chỉnh giảm kế hoạch vốn để tránh lãng phí.

2. Liên quan đến phân bổ vốn:

- Việc chưa phân bổ một lượng vốn tương đối lớn mới được Thủ tướng Chính phủ giao bổ sung từ nguồn vốn tăng thu NSTW năm 2024 hiện đang được triển khai hoàn thiện các thủ tục đầu tư, lựa chọn nhà thầu, chưa có khối lượng để giải ngân[21], ảnh hưởng đến tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công nguồn NSNN đến thời điểm báo báo (tính đến ngày 27/8/2025 còn 31.764,2 tỷ đồng giao bổ sung từ nguồn tăng thu NSTW năm 2024 và nguồn vốn CTMTQG giao bổ sung đợt 2, đợt 3 chưa triển khai phân bổ, chiếm kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao).

Một số địa phương (cấp xã) đang tập trung cho công tác kiện toàn và vận hành mô hình chính quyền mới, chưa sát sao trong công tác phân bổ vốn để kịp thời tiến độ thực hiện các dự án, bao gồm nguồn vốn thực hiện CTMTQG.

- Đối với kế hoạch vốn giao đầu năm, nhiều bộ ngành và địa phương đã đề xuất điều chỉnh giảm kế hoạch vốn[22] do không có khả năng thực hiện hoặc không còn nhu cầu sử dụng (do thay đổi mô hình tổ chức trong quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy) dẫn đến phải dừng triển khai dự án để tránh lãng phí.

3. Liên quan đến cơ chế chính sách:

Mặc dù các cơ chế chính sách về quản lý đầu tư công đã được sửa đổi, khắc phục trong thời gian qua song cơ chế chính sách vẫn còn một số vướng mắc như: vướng mắc về tính giá đất theo Luật Đất đai; vướng mắc về xử lý chồng lấn quy hoạch; vướng mắc về thẩm quyền điều chỉnh kế hoạch vốn giữa các dự án (từ dự án dư vốn sang dự án có nhu cầu sử dụng vốn để đẩy mạnh tiến độ giải ngân) do đang chờ Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư công (sửa đổi theo Luật số 90/2025/QH15[23]) về điều chỉnh thẩm quyền điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021-2025[24]; vướng mắc do chưa ban hành các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (trong đó có quy định về loại hợp đồng BT với phương thức thanh toán quỹ đất);...

4. Liên quan đến công tác tổ chức thực hiện:

- Về GPMB: Công tác bồi thường, GPMB phục vụ thi công các dự án còn chậm do khó khăn trong việc xác định giá đất đền bù do chưa đạt được thỏa thuận đối với người dân, chậm bàn giao mặt bằng, xác định nguồn gốc sử dụng đất của các hộ gặp nhiều khó khăn do chuyển nhượng nhiều lần nên mất thời gian, việc hoàn thiện hồ sơ thu hồi đất qua nhiều bước; việc sáp nhập các tỉnh dẫn tới cùng một địa phương song có nhiều bảng giá đất, ảnh hưởng đến việc xây dựng phương án bồi thường GPMB;...[25].

- Về nguyên vật liệu: Nguồn cung một số nguyên vật liệu hạn chế (đất, cát đắp...); giá nhiều nguyên vật liệu tăng đột biến so với thời điểm mời thầu làm tăng chi phí dự án;...[26].

- Về công tác quy hoạch: Sự chậm trễ trong lập, phê duyệt, điều chỉnh quy hoạch, đặc biệt là các quy hoạch chi tiết và chỉ giới đường đỏ, do thủ tục phức tạp, chồng chéo giữa các quy hoạch, thiếu phối hợp giữa các cơ quan liên quan cũng làm ảnh hưởng đến việc triển khai dự án[27].

- Về các dự án ODA: các dự án chậm giải ngân do (i) chưa hoàn thành quy trình thủ tục đầu tư (đang điều chỉnh, gia hạn thời gian thực hiện, thời gian giải ngân hoặc chưa hoàn thiện các thủ tục ký kết và hiệu lực của Hiệp định vay)[28]; (ii) tiến hành các thủ tục đấu thầu chậm (bao gồm cả các gói thầu đấu thầu quốc tế), đang triển khai chuẩn bị ký kết Hợp đồng và xử lý các vướng mắc trong công tác GPMB[29]; (iii) đến hết tháng 7, một số bộ ngành, địa phương vẫn đang ưu tiên tập trung hoàn chứng từ các khoản giải ngân từ tài khoản đặc biệt theo kế hoạch vốn năm 2024[30];...

- Điều kiện thời tiết diễn biến bất lợi, phức tạp: thời gian qua trên địa bàn các địa phương xảy ra nhiều đợt mưa lớn, sạt lở, lũ lụt,... Diễn biến thời tiết bất lợi này đã ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ thi công các hạng mục như đào, đắp nền đường, vận chuyển bê tông để phục vụ thi công cầu, cống, hầm chui dân sinh .......... Đây là nguyên nhân bất khả kháng dẫn tới việc thi công các công trình không đảm bảo tiến độ[31].

4. Về nguồn thu NSĐP: Mặc dù thu ngân sách cả nước cao vượt kế hoạch, song một số địa phương vẫn còn khó khăn trong việc thu ngân sách địa phương từ nguồn thu sử dụng đất dẫn đến chưa có nguồn vốn để phân bổ chi tiết cho các dự án triển khai thực hiện (Điện Biên), thực tế nguồn thu tiền sử dụng đất sẽ đạt thấp ở những tháng đầu năm (Bắc Ninh);....

IV. VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC DỰ ÁN QUAN TRỌNG QUỐC GIA NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI (Phụ lục III đính kèm)

Các bộ, cơ quan, địa phương đã phân bổ chi tiết toàn bộ 12/12 dự án quan trọng quốc gia ngành giao thông vận tải với tổng số vốn là 100.137,1 tỷ đồng; trong đó: vốn NSTW là 84.889,6 tỷ đồng; vốn NSĐP là 15.247,5 tỷ đồng. Bộ Tài chính đã kịp thời duyệt dự toán để đảm bảo vốn cho các dự án.

Đến hết ngày 31/7/2025, tổng số vốn giải ngân của 12 dự án quan trọng quốc gia ngành giao thông vận tải là 22.579,5 tỷ đồng (trong đó: vốn NSTW là 20.057,3 tỷ đồng, đạt 23,6%; vốn NSĐP là 2.522,2 tỷ đồng, đạt 22,3%), đạt tỷ lệ 23,5% kế hoạch được giao, thấp hơn so với tỷ lệ giải ngân bình quân chung của cả nước (46,3%).

Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ Xây dựng, các địa phương, các chủ đầu tư, nhà thầu, người dân đã nỗ lực cố gắng, chủ động triển khai, khắc phục các khó khăn để đẩy nhanh tiến độ thi công các dự án và đạt được tiến triển tương đối rõ rệt. Đối với các dự án có tiến độ hoàn thành năm 2025, công tác GPMB đã cơ bản hoàn thành; một số vướng mắc cục bộ (đường gom, điện cao thế) không ảnh hưởng nhiều tới tiến độ thi công, về nguồn cung vật liệu xây dựng đã cơ bản được tháo gỡ; đối với các dự án thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, các tỉnh đã rà soát và bố trí đủ nguồn cung.

Như vậy, về cơ bản các khó khăn, vướng mắc ảnh hưởng đến công tác giải ngân kế hoạch vốn năm 2025 đã được giải quyết. Để đảm bảo tỷ lệ giải ngân theo chỉ đạo của Chính phủ, một số khó khăn ảnh hưởng đến kết quả giải ngân cần tiếp tục tháo gỡ như:

- Mặc dù các quy định pháp luật liên quan đến quản lý khoáng sản, đất đai đã được chỉnh sửa, ban hành hoặc áp dụng theo các cơ chế đặc thù được Quốc hội cho phép, quá trình triển khai thực hiện còn vướng mắc cần tiếp tục được hoàn thiện, sửa đổi, ban hành để áp dụng thống nhất, đồng bộ.

- Chính quyền địa phương chưa tích cực trong việc giải quyết các khó khăn vướng mắc về công tác GPMB, xử lý triệt để các phát sinh khiếu nại nhất là với các diện tích Đất ở, sinh kế, tập quán, thói quen của người dân; xử lý nghiêm hiện tượng người dân cản trở thi công trong phạm vi mặt bằng đã bàn giao. Một số tỉnh chưa hoàn thành bàn giao mặt bằng trạm dừng nghỉ thuộc dự án cao tốc Bắc - Nam phía Đông.

- Một số dự án có kế hoạch hoàn thành năm 2025, khối lượng còn nhiều trong khi mùa mưa đến sớm hơn thường lệ và dự kiến kéo dài, ảnh hưởng đến việc triển khai thi công tiềm ẩn rủi ro chậm hoàn thành theo kế hoạch, đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng vượt bậc, sự sát sao, điều hành linh hoạt mới bảo đảm kế hoạch hoàn thành 3.000 km đường bộ cao tốc, đặc biệt là DATP 3, 5 Vành đai 3 Thành phố Hồ Chí Minh, DATP 1 Biên Hòa - Vũng Tàu, Tuyên Quang - Hà Giang.

- Một số dự án mới khởi công nhưng tiến độ triển khai thời gian đầu còn chậm, cần xây dựng kế hoạch cụ thể, rút kinh nghiệm trong triển khai các dự án thời gian qua để khắc phục, khó khăn, vướng mắc và tăng tốc trong thời gian tới.

Ngoài ra, hiện nay một số dự án quan trọng quốc gia không còn nhu cầu sử dụng vốn (dự án đẩy nhanh tiến độ triển khai, dự kiến hoàn thành trong năm 2025 nên dư vốn so với tổng mức đầu tư do tiết kiệm chi phí sau đấu thầu, giá trị quyết toán, chi phí dự phòng) dẫn đến không sử dụng hết kế hoạch vốn năm 2025 đã bố trí, điển hình như: Dự án cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020 (dự kế hoạch năm 2025 khoảng 1.000 tỷ đồng); Dự án cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 (dư kế hoạch vốn năm 2025 khoảng 3.000 tỷ đồng);... Toàn bộ kế hoạch vốn còn dư này hiện đang chờ thủ tục để điều chỉnh bổ sung cho Dự án đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng; sau khi bổ sung xong, tỷ lệ giải ngân chung của Bộ Xây dựng sẽ được cải thiện.

V. VỀ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP CỦA BỘ TÀI CHÍNH

Để triển khai đảm bảo tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công năm 2025 đạt mục tiêu 100% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, góp phần thúc đẩy tăng trưởng cả năm đạt 8% trở lên, các bộ, cơ quan trung ương và địa phương cần nghiêm túc rút kinh nghiệm, triển khai kịp thời, quyết liệt, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp để thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công theo chỉ đạo tại Nghị quyết số 230/NQ-CP ngày 10/8/2025 của Chính phủ về phiên họp thường kỳ tháng 7/2025 và hội nghị trực tuyến Chính phủ với địa phương. Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính đề xuất các bộ, cơ quan trung ương và địa phương triển khai một số kiến nghị và giải pháp trọng tâm như sau:

(1) Liên quan đến sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và chuyển sang mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp:

- Các bộ, cơ quan trung ương và địa phương quyết liệt thực hiện các kết luận, chỉ đạo của cấp có thẩm quyền về việc thực hiện chính quyền 02 cấp; kịp thời xử lý vướng mắc theo thẩm quyền; tổng hợp, báo cáo cấp thẩm quyền xử lý triệt để các khó khăn, vướng mắc; tập trung chỉ đạo, tổ chức triển khai, bảo đảm không để xảy ra tình trạng đứt gãy, gián đoạn trong việc triển khai thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công trong giai đoạn sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp, chuyển sang mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp.

- Bộ Tư pháp: tiếp tục rà soát, lấy ý kiến các bộ, ngành liên quan để đề xuất phương án hoàn thiện pháp luật, nhất là một số quy định còn mâu thuẫn, chưa đảm bảo tính thống nhất giữa các luật, nghị định, thông tư liên quan đến phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền khi tổ chức mô hình chính quyền 02 cấp.

- Bộ Nội vụ: ban hành và phối hợp với các bộ, ngành có liên quan ban hành văn bản hướng dẫn việc thành lập đơn vị sự nghiệp công lập thuộc UBND cấp xã, nhất là các đơn vị cung cấp các dịch vụ công cơ bản, thiết yếu ở cấp xã, quản lý dự án đầu tư.

- Bộ Xây dựng: xem xét sửa đổi, hoàn thiện các quy định hướng dẫn việc phân cấp thực hiện nhiệm vụ chủ đầu tư cấp xã để tránh chồng chéo, vướng mắc trong thẩm định, quyết toán.

(2) Khẩn trương thực hiện phân bổ kế hoạch vốn đầu tư công năm 2025 chưa phân bổ chi tiết (bao gồm kế hoạch vốn giao đầu năm, kế hoạch giao bổ sung nguồn vốn CTMTQG và vốn NSTW bổ sung từ nguồn tăng thu NSTW năm 2024) đến hết ngày 30/9/2025 theo quy định, đảm bảo kịp thời giải ngân trong những tháng cuối năm. Đồng thời, chủ động xây dựng kế hoạch và chỉ tiêu giải ngân, yêu cầu chủ đầu tư báo cáo tiến độ giải ngân theo từng tháng, quý; kịp thời tháo gỡ vướng mắc phát sinh của từng dự án, phấn đấu tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công đến hết Quý III tối thiểu đạt 60% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, cả năm 2025 đạt 100%.

(3) Các bộ, cơ quan ngang bộ tiếp tục rà soát, tổng hợp các vướng mắc trong cơ chế chính sách liên quan đến giải ngân đầu tư công theo chức năng nhiệm vụ để báo cáo, đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét, kịp thời tháo gỡ.

(4) Tiếp tục tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc GPMB, huy động sự vào cuộc của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và cả hệ thống chính trị, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, bổ sung nhân sự có kinh nghiệm trong công tác GPMB cho các xã; xác định công tác bồi thường, GPMB là nút thắt trong quy trình triển khai dự án cần phải tập trung tháo gỡ, hạn chế mức thấp nhất tình trạng dự án chờ mặt bằng.

(5) Đối với các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm trong lĩnh vực giao thông vận tải:

- Các bộ, ngành và địa phương tích cực, chủ động thực hiện các nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ giao tại báo cáo số 401/TB-VPCP ngày 06/8/2025[32] của Văn phòng Chính phủ; theo đó, đề nghị Bộ Xây dựng và các địa phương đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình, dự án, tăng cường kiểm tra, giám sát, phân công rõ trách nhiệm, phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành đảm bảo; khoa học, hiệu quả công việc... để phấn đấu hoàn thành ít nhất 3000km cao tốc, trên 1.000km đường bộ ven biển và các dự án lớn như Cảng hàng không quốc tế Long Thành trong năm 2025.

- Đề nghị các địa phương khẩn trương thực hiện và giải ngân vốn các dự án, đặc biệt là các dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành giao thông vận tải do địa phương làm cơ quan chủ quản, cụ thể như: Tuyến cao tốc Ninh Bình - Hải Phòng (CT.08), DATP3 xây dựng đường cao tốc Vành đai 4 Vùng thủ đô Hà Nội, Cao tốc Gia Nghĩa - Chơn Thành, Cao tốc Tân Phú - Bảo Lộc, Cao tốc Bảo Lộc - Liên Khương, Vành đai 3 Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài (PPP),...; đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện thủ tục đầu tư các dự án mới được giao bổ sung vốn NSTW từ nguồn tăng thu NSTW năm 2024, bao gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, GPMB, ký kết hợp đồng xây lắp.

(6) Đối với các dự án ODA: Các cơ quan chủ quản, chủ dự án đẩy nhanh hoàn thiện các thủ tục đầu tư dự án; đồng thời bám sát tiến độ thực hiện dự án và tiến độ điều chỉnh dự án, kịp thời tháo gỡ ngay vướng mắc, khó khăn trong triển khai dự án và giải ngân, chỉ đạo tập trung đẩy mạnh giải ngân các dự án đã hoàn tất các thủ tục đầu tư, công tác đấu thầu, ký kết hợp đồng; phối hợp với Bộ Tài chính để kịp thời trao đổi với nhà tài trợ trong trường hợp có vướng mắc phát sinh.

(7) Đối với vốn NSĐP: các địa phương phải chủ động đẩy mạnh thu ngân sách, nhất là từ đất đai, đồng thời kỊp thời kiến nghị bổ sung nguồn nếu hụt thu, tránh để dự án thiếu vốn triển khai.

(8) Đối với các CTMTQG: các bộ, ngành và địa phương cần chủ động ban hành hoặc trình ban hành văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện, đồng bộ với quá trình sắp xếp đơn vị hành chính. Các cơ quan chủ chương trình (Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Dân tộc và Tôn giáo) khẩn trương thực hiện rà soát, tổng hợp nhu cầu thực tế của các bộ, ngành và địa phương, đề xuất điều chỉnh phần vốn không còn sử dụng, hoàn trả về ngân sách trung ương để kịp thời phân bổ lại.

(9) Nghiêm túc chấp hành chế độ báo cáo tình hình thực hiện, thanh toán vốn đầu tư công theo Thông tư số 37/2025/TT-BTC ngày 12/6/2025 của Bộ Tài chính, trong đó đảm bảo nội dung về thời gian thực hiện, biểu mẫu báo cáo; báo cáo theo quy định tại Quyết định số 1544/QĐ-TTg ngày 16/7/2025 về việc thành lập các Tổ công tác đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu, xây dựng hạ tầng, thúc đẩy tăng trưởng, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công (các bộ, cơ quan trung ương và địa phương thuộc đối tượng kiểm tra có tỷ lệ giải ngân dưới mức trung bình của cả nước); nghiêm túc thực hiện cập nhật đầy đủ thông tin dữ liệu trên Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư công theo quy định.

Bộ Tài chính báo cáo Thủ tướng Chính phủ./.

 


Nơi nhận:
- Như trên;
- Phó TTgCP Hồ Đức Phớc (để báo cáo);
- Bộ trưởng (để báo cáo);
- Văn phòng Chính phủ;
- Cổng TTĐTCP (để đăng tải);
- Các đơn vị: NSNN, KTN, KTĐP, ĐCTC, VI, KBNN, QLN, KHTC;
- Cục CNTT (để đăng tải lên cổng TTĐT và Hệ thống thông tin và CSDLQG về đầu tư công);
- Lưu: VT; PTHT(5b).

KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG




Đỗ Thành Trung

 

 



[1] Tại các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ: số 1508/QĐ-TTg ngày 04/12/2024; số 154/QĐ-TTg ngày 04/12/2024; số 1148/QĐ-TTg ngày 13/06/2025; số 1411/QĐ-TTG ngày 29/6/2025; số 1566/QĐ-TTg ngày 19/7/2025; số 134/QĐ-TTg ngày 19/7/2025.

[2] Vốn trong nước nguồn NSTW bao gồm: 269.465,9 tỷ đồng từ nguồn kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021- 2025; 114.803 tỷ đồng từ nguồn tăng thu NSTW năm 2021, 2022, 2023, 2024.

[3] Hủy dự toán 944,866 tỷ đồng vốn CTMTQG theo Nghị quyết số 165/NQ-CP ngày 09/6/2025 của Chính phủ về bổ sung dự toán chi đầu tư phát triển, kế hoạch đầu tư nguồn NSNN năm 2025 cho các địa phương thực hiện 03 CTMTQG và Nghị quyết số 196/NQ-CP ngày 27/6/2025 của Chính phủ về xử lý vốn đầu tư còn lại nguồn NSNN năm 2025 của các CTMTQG.

[4] Trong đó: 15.823,86 tỷ đồng vốn NSTW mới được cho phép kéo dài tại văn bản số 7067/BTC-TH ngày 23/5/2025 của Bộ Tài chính về thông báo kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân kế hoạch đầu tư công vốn NSTW năm 2024 sang năm 2025.

[5] Không bao gồm BQL khu công nghệ cao Hòa Lạc, do đã được điều chuyển kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021-2025 và kế hoạch năm 2024 sang TP Hà Nội. Tuy nhiên, theo Quyết định số 1508/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, BQL khu công nghệ cao Hòa Lạc vẫn được giao kế hoạch năm 2025 là 563,197 tỷ đồng, chưa giao cho TP Hà Nội quản lý.

[6] Trong đó: 30.789 tỷ đồng giao bổ sung từ nguồn tăng thu NSTW năm 2024; 957,2 tỷ đồng nguồn vốn CTMTQG giao bổ sung đợt 2, đợt 3.

[7] Tờ trình số 619/TTr-CP ngày 04/7/2025 về việc phân bổ, điều chỉnh kế hoạch đầu tư vốn NSTW năm 2025 từ nguồn tăng thu NSTW năm 2022; điều chỉnh Kế hoạch đầu tư công vốn NSTW năm 2025 giữa các bộ, cơ quan trung ương và địa phương; điều chỉnh kế hoạch đầu tư công vốn NSTW năm 2025 để phù hợp với tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan trung ương, địa phương sau sắp xếp.

[8] Lạng Sơn, Huế.

[9] Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Dân tộc và Tôn giáo, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Đài Tiếng nói, Viện HL Khoa học và Công nghệ, Ngân hàng Nhà nước, Thái Nguyên, Quảng Bình, An Giang, Cần Thơ, Hà Tĩnh,...

[10] Nghệ An, Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Đắk Nông.

[11] Văn phòng Quốc hội.

[12] Bộ Giao thông vận tải. Cụ thể: số vốn chưa phân bổ tương ứng với số vốn dự kiến phân bổ cho “Dự án nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 24B đoạn Km23+050 - Km29+800 tỉnh Quảng Ngãi”, thực hiện quy định phân cấp Quốc lộ về địa phương tại Nghị định số 165/2024/NĐ-CP ngày 26/12/2024 của Chính phủ.

[13] Lai Châu, Nghệ An, Quảng Ngãi, Tuyên Quang, Cà Mau.

[14] Tây Ninh, Sơn La, Cao Bằng, Đắk Lắk, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bắc Ninh.

[15] Bao gồm: Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Tài chính; Bộ Giao thông vận tải; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Thông tin và Truyền thông; Bộ Khoa học và Công nghệ; Bộ Tài nguyên và Môi trường; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Thái Nguyên; Điện Biên; Kiên Giang.

[16] Bao gồm: Bộ Xây dựng; Bộ Giáo dục và Đào tạo; Hội Nông dân Việt Nam; Tuyên Quang; Yên Bái; Sơn La; Lai Châu; Hà Nam; Ninh Bình; Thái Bình; Quảng Ngãi; Gia Lai; Kon Tum; Lâm Đồng; Thành phố Hồ Chí Minh; Bình Dương; Tây Ninh; Bến Tre; Vĩnh Long; Thành phố Cần Thơ.

[17] Bao gồm tổng hợp đề xuất điều chỉnh vốn NSTW của 10 bộ, cơ quan trung ương và 03 địa phương Bộ Tài chính đã trình Chỉnh phù trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định (Tờ trình số 243/TTr-BTC ngày 28/5/2025 của Bộ Tài chính).

[18] Theo báo cáo số 6032/BC-BNV ngày 05/8/2025 của Bộ Nội vụ về sơ kết đánh giá tình hình sau 01 tháng triển khai thực hiện và vận hành mô hình chính quyền địa phương 02 cấp.

[19] Lào Cai, Phú Thọ, Ninh Bình, Nghệ an, TP Hồ chí Minh, Đồng Nai.

[20] Một số địa phương thuộc địa bàn các tỉnh miền núi phía Bắc.

[21] Lai Châu, Khánh Hòa, Quảng Trị, Đồng Nai, An Giang, Tuyên Quang,...

[22] Nêu tại điểm 2.3 khoản 2 Mục I công văn.

[23] Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Hải quan, Luật Thuế giá trị gia, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công.

[24] Điểm d khoản 32 Điều 7 Luật số 90/2025/QH15: “5. Người đứng đầu Bộ, cơ quan trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn và hàng năm vốn ngân sách trung ương do cấp mình quản lý trong trường hợp không thay đổi tổng mức vốn trung hạn và hàng năm đã được cấp có thẩm quyền quyết định.”

[25] Thái Nguyên, Nghệ An, Bắc Ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh...

[26] Hà Nội, Cà Mau.

[27] Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Y tế, Bộ Dân tộc và Tôn giáo, Hà Nội,...

[28] Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ, Bộ Xây dựng, Hà Nội, Phú Thọ, Vĩnh Long, Cà Mau,...

[29] Bộ Y tế, Bộ Xây dựng, Lào Cai, Thanh Hóa.

[30] Hà Nội, Hà Tĩnh, Vĩnh Long.

[31] Tuyên Quang, Lào Cai, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Điện Biên, Sơn La, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh,....

[32] Thông báo Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính - Trưởng Ban Chỉ đạo tại Hội nghị trực tuyến sơ kết 6 tháng đầu năm 2025 Ban Chỉ đạo Nhà nước các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành giao thông Vận tải (Phiên họp thứ 19) và sơ kết đợt thi đua cao điểm “500 ngày đêm thi đua hoàn thành 3.000km đường bộ cao tốc”

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Công văn 13417/BTC-PTHT về tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước 7 tháng, ước 8 tháng năm 2025 do Bộ Tài chính ban hành

  • Số hiệu: 13417/BTC-PTHT
  • Loại văn bản: Công văn
  • Ngày ban hành: 28/08/2025
  • Nơi ban hành: Bộ Tài chính
  • Người ký: Đỗ Thành Trung
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: 28/08/2025
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
Tải văn bản