TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ TỈNH SƠN LA Bản án số: 155/2024/HS-ST Ngày 17 - 5 - 2024 | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Lô Văn Long
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Lò Thị Thành; bà Trần Thị Kim Xuân
Thư ký phiên toà: Bà Lý Thị Thùy Linh - Thư ký Toà án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La tham gia phiên toà: Ông Trần Thanh Quân - Kiểm sát viên.
Ngày 17 tháng 5 năm 2024 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 156/2024/HSST ngày 23 tháng 4 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 148/2024/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Phạm Văn L, sinh năm 1963, tại Sông M, Sơn La.
Nơi cư trú: Bản Nà P II, xã Nà Ngh, huyện Sông M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/10; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt nam; con ông Phạm Văn Ch (đã chết) và bà Lê Thị V; bị cáo có vợ là Hà Thị X và 03 con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/02/2024 cho đến nay; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 10 giờ 00 phút ngày 03/02/2024 tổ công tác Công an xã Nà Ngh, huyện Sông Mã làm nhiệm vụ rà soát người nghiện ma túy trên địa bàn bản Nà P II, xã Nà Ngh, huyện Sông Mã. Tổ công tác đến nhà Phạm Văn L, sinh năm 1963, nơi cư trú bản Nà P II, xã Nà Ngh, huyện Sông Mã để test thử chất ma túy đối với L, qua làm việc L thừa nhận bản thân sử dụng chất ma túy. Tổ công tác đã yêu cầu L có tài liệu đồ vật vi phạm pháp luật thì giao nộp nên L lấy từ trong túi áo khoác bên trái đang mặc ra giao nộp cho tổ công tác 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa chất bột liên kết màu trắng và màu hồng (L khai nh¾n làmục đích cất giấu sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ và niêm phong vật chứng.
Ngày 04/02/2024 tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã đã thành lập hội đồng mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng vật chứng và trích mẫu giám định, kết quả: Chất bột liên kết màu trắng và màu hồng có khối lượng 0,13 gam, trích toàn bộ làm mẫu giám định ký hiệu L.
Kết luận số 487/KL-KTHS ngày 06/02/2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: "Mẩu ký hiệu L gủi giám định là ma túy, loại Methamphetamine và Heroine (Heroin), có tên khoa học là Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ lu¾t hình sự năm 2015 (sủa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NÐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất; khối lượng của mẩu gủi giám định là 0,13 gam.
Tổng khối lượng ma túy thu giũ là 0,13 gam, loại Methamphetamine và Heroine (Heroin), có tên khoa học là Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ lu¾t hình sự năm 2015 (sủa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NÐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất."
Quá trình điều tra bị cáo Phạm văn L khai nhận hành vi phạm tội như sau: Phạm Văn L sử dụng ma túy từ năm 2018. Khoảng 07 giờ ngày 01/02/2024, L đến bản Nà Cần, xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã lắp cửa cho khách rồi ở lại ăn cơm. Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, L đi ra vườn nhãn gần đó thì gặp 03 người thanh niên không quen biết đang sử dụng ma túy nên L xin sử dụng ma túy cùng thì được 03 thanh niên đồng ý. Sử dụng ma túy xong, L nhìn thấy trên mặt đất trước mặt ba người thanh niên đang ngồi có một ít Heroine và Hồng phiến nên L hỏi xin thì được ba thanh niên đồng ý cho. L nhặt một mảnh nilon màu trắng rồi gói số ma túy trên lại cất giấu vào túi áo khoác đang mặc rồi tiếp tục về lắp cửa, đến 17 giờ 30 phút xong việc L mang theo gói ma túy về nhà. Đến 09 giờ ngày 03/02/2024, L lấy gói ma túy trích một ít Heroine và Hồng phiến ra sử dụng bằng hình thức đốt hít qua đường hô hấp, số còn lại L gói lại như ban đầu rồi cất vào túi áo khoác bên trái đang mặc. Đến 10 giờ 20 phút cùng ngày, L đang ở nhà thì tổ công tác Công an xã Nà Ngh đến test ma túy đối với L và yêu cầu nếu có tài liệu đồ vật vi phạm thì giao nộp, biết không trốn tránh được nên L đã lấy gói ma túy từ trong túi áo khoác ra giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ và niêm phong vật chứng.
Cáo trạng số 100/CT-VKSSM ngày 22 tháng 4 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử bị cáo Phạm văn L về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Phạm Văn L đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật viện dẫn áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử
Tuyên bố bị cáo Phạm Văn L phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Phạm Văn L từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.
Đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị: Tịch thu để tiêu hủy 01 mảnh nilon màu trắng và 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở.
Về án phí: Đề nghị miễn án phí cho bị cáo do là người cao tuổi.
Bị cáo Phạm Văn L không có ý kiến gì đối đáp với lời luận tội của Kiểm sát viên, khi được nói lời sau cùng, bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Về tội danh và điều luật áp dụng: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ trong vụ án; Kết luận giám định và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày 03/02/2024 bị cáo Phạm Văn L đã có hành vi tàng trữ 0,13 gam ma túy, gồm các loại Methamphetamine và Heroine. Tổng khối lượng của 02 chất ma túy là 0,13 gam, mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.
Tại phiên toà bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi, vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng
với sự việc đã thực hiện. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo về tội: Tàng trũ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; phát biểu luận tội của của Kiểm sát viên tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị mức xử phạt tù giam đối với bị cáo về tội danh nêu trên là phù hợp, có căn cứ, đúng người, đúng pháp luật.
Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi mà bị cáo Phạm Văn L thực hiện đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Về tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình là vi phạm điều cấm của pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện, thể hiện sự coi thường pháp luật, vi phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương nên cần xử lý nghiêm.
Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Về hình phạt chính: Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân của bị cáo, xét thấy cần áp dụng hình phạt tù giam đối với bị cáo và cách L bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội cũng như công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
Về hình phạt bổ sung là phạt tiền: Hội đồng xét xử thấy bị cáo không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về các vấn đề có liên quan: Đối với 03 người thanh niên, không rõ tên, địa chỉ là những người đã cho bị cáo ma túy tại khu vực bản Nà Cần, xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã vào ngày 01/02/2024. Do không xác định được họ tên đầy đủ và địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.
Vật chứng của vụ án: Đối với 01 mảnh nilon màu trắng và 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở là vật không có giá trị sử dụng, nên cần tịch thu để tiêu hủy.
Về án phí: Bị cáo là người cao tuổi, nên được xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Về tội danh và hình phạt:
Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Phạm Văn L phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Xử phạt bị cáo Phạm Văn L 01 (một) năm 01 (một) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/02/2024.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Tịch thu để tiêu hủy 01 mảnh nilon màu trắng và 01 phong bì thư niêm
phong vật chứng ban đầu đã bóc mở.
(các v¾t chứng được đựng trong một phong bì thư do Bưu điện Việt Nam).
Theo Quyết định chuyển v¾t chứng số: 94/QÐ-VKS ngày 19/4/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã và Biên bản về việc giao nh¾n v¾t chứng, tài sản l¾p hồi 14 giờ 00 phút ngày 19 tháng 4 năm 2024 giũa Công an huyện Sông Mã và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.
Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc hội. Bị cáo Phạm Văn L được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 17/5/2024).
Nơi nhận:
| T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
Lô Văn Long |
Bản án số 155/2024/HS-ST ngày 17/05/2024 của TAND huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La
- Số bản án: 155/2024/HS-ST
- Quan hệ pháp luật:
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 17/05/2024
- Loại vụ/việc: Hình sự
- Tòa án xét xử: TAND huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: BA HSST